Thứ Tư, 5 tháng 6, 2019

Xuất huyết tiêu hóa: Biến chứng của loét dạ dày - tá tràng ở trẻ em

Điều đáng nói là những trẻ này thường không có mô tả gì rõ rệt trước khi nhập viện cho đến khi xuất hiện ói máu hoặc đi tiêu phân đen.

bây chừ bệnh về bao tử không còn là “bệnh độc quyền” ở lứa tuổi trưởng thành nữa, BS. Hoài Nhân (BV. Nguyễn Tri Phương) cho biết, theo một ghi nhận của Viện Dinh dưỡng nhà nước, nhóm trẻ nít có độ tuổi từ 6 - 16 tuổi có khả năng mắc phải bệnh bao tử khôn cùng cao. Trong đó, nhóm ở độ tuổi từ 10 - 16 tuổi có tỉ lệ nhiễm bệnh cao hơn rất nhiều so với nhóm có độ tuổi thấp hơn. Nhiều trường hợp bệnh nhi nhập viện trong tình trạng thiếu máu nặng cần phải truyền máu cấp cứu và khi được rà soát bằng ống nội soi mềm phát hiện trẻ bị loét dạ dày - tá tràng.

Những căn do

duyên cớ gây loét dạ dày - tá tràng ở người lớn trước đây thường được cho là do stress, ăn uống không điều độ, lạm dụng rượu bia - thuốc lá, dùng các chất kích thích, các thuốc kháng viêm giảm đau không steroid (NSAID). giờ nhiễm Helicobacter pylori (HP) được cho là duyên cớ chính của bệnh, không chỉ ở người lớn mà còn ở cả trẻ em.

HP là một loại vi khuẩn thường nhiễm vào bao tử người từ lúc ấu thơ. hồ hết các trường hợp nhiễm khuẩn HP đều không có dấu hiệu bệnh lý rõ ràng, nhưng nó lại có thể gây ra tình trạng viêm dạ dày mãn tính, ung thư bao tử, loét dạ dày tá tràng, thành ra thỉnh thoảng chúng được gọi là “vi khuẩn gây loét”. Vi khuẩn này hiện diện trên một nửa dân số thế giới.

Xuất huyết tiêu hóa Nhiễm Helicobacter pylori (HP) được cho là căn do chính của bệnh

Sau khi thâm nhập vào thân thể qua đường ăn uống như: nước bọt, phân, dịch tiêu hóa, nguồn nước… vi khuẩn HP sẽ chui vào lớp nhầy bảo vệ niêm mạc bao tử, tại đây chúng tiết ra những chất làm kích thích bao tử tiết nhiều axít hơn, song song làm suy yếu lớp nhày bảo vệ và tiết ra một số độc tố làm tổn thương các tế bào nằm bên dưới lớp nhày. Do đó, niêm mạc dễ dàng bị ăn mòn bởi chất axít có trong dịch tiêu hóa của dạ dày, gây nên tình trạng viêm loét dạ dày - tá tràng.

Nhiễm khuẩn HP ở trẻ con có vài điểm dị biệt so với nhiễm khuẩn HP ở người lớn:

- Tần suất nhiễm thấp hơn người lớn.

- Tỉ lệ bệnh và biến chứng: đa phần viêm dạ dày mãn không triệu chứng, chỉ 15 - 20% người nhiễm có loét đường tiêu hóa và 1 - 2% người nhiễm bị ung thư dạ dày khi trở thành người lớn (chứ không phải lúc nhỏ).

- Hầu như chơi gây ra ác tính như ở người lớn.

- Điều trị dễ bị kháng thuốc do trẻ nít hay sử dụng kháng sinh để điều trị viêm nhiễm đường hô hấp mà các kháng sinh này cũng là kháng sinh để điều trị HP.

Bình thường sau khi nhiễm, HP sẽ sống chung với ta suốt đời, nếu không điều trị. phần nhiều các trường hợp ở trẻ nít, HP chỉ gây viêm kinh niên và không gây ra triệu chứng gì (chiếm 80% hoặc hơn nữa, một số ít (15 - 20%) HP gây ra viêm hoặc loét trong bao tử, tá tràng. Cho đến nay, các chuyển biến thành ác tính hầu như thường thấy ở trẻ mỏ mà chỉ xuất hiện ở người lớn với tần số thấp (khoảng 2 - 5%). Tóm lại, hồ hết sẽ sống “hòa bình” với chúng ta.

Triệu chứng

hồ hết người nhiễm vi khuẩn HP không có biểu thị triệu chứng gì cho đến khi xuất hiện xuất huyết tiêu hóa vì loét dạ dày tá tràng. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người bệnh có những triệu chứng mơ hồ hoặc thoáng qua như:

- Ợ hơi, đầy bụng.

- Buồn nôn và nôn.

- Đau rát ở bụng giữa xương ức và rốn.

- Đau ngực.

- Sụt cân, mỏi mệt.

- thẳng băng ợ nóng, nấc cục.

- Chán ăn.

- Khó nuốt.

- Hôi miệng.

- đi tả.

- Thiếu máu.

- Nôn ra máu hoặc đi cầu ra máu.

Những triệu chứng và dấu hiệu này rất phổ biến ở trẻ em bị bệnh và không nhất thiết phải là loét dạ dày tá tràng, tuy nhiên, chúng cũng đều là những cảnh báo cấp thiết phải chẩn đoán sớm. Nhiễm HP được phát hiện qua xét nghiệm:

Nội soi bao tử là biện pháp phổ quát, không chỉ để tìm HP mà quan trọng hơn là đánh giá tình trạng tổn thương dạ dày, tá tràng, thực quản… Khi nội soi, bác sĩ sẽ bấm lấy một số mẫu thịt nhỏ (sinh thiết) để xem trên kính hiển vi xác định tổn thương, đồng thời tìm HP bằng nhiều phương pháp khác nhau.

Xuất huyết tiêu hóa Nội soi dạ dày là biện pháp phổ biến, không chỉ để tìm HP mà quan trọng hơn là đánh giá tình trạng thương tổn bao tử, tá tràng, thực quản...

Hai loại xét nghiệm dị thường dùng để theo dõi sau điều trị xem HP đã được diệt sạch hay chưa là test hơi thở và tìm kháng nguyên HP trong phân. Loại đầu thì dùng cho trẻ lớn trên 7 tuổi, có thể hợp tác tốt, còn loại sau (thử phân) thì dùng cho trẻ nhỏ.

Test huyết thanh thì hầu như chơi được khuyên dùng ở trẻ mỏ vì những hạn chế trong độ tin của nó.

Trước đây, loét bao tử tá tràng được coi là bệnh nan y, mãn tính, không thể trị khỏi dứt điểm trong suốt thế cuộc. Tuy nhiên, từ sau khi phát hiện ra vi khuẩn HP, người ta đã có thể chữa trị triệt để bệnh này ở hồ hết bệnh nhân. Nhiễm HP nếu điều trị đúng phác đồ và đúng thuốc thường sẽ đạt hiệu quả điều trị tốt. Tuy nhiên vẫn có một tỉ lệ bệnh nhân bị nhiễm trùng tái phát. Các nhân tố gây thất bại tiệt trừ HP:

Sự tuân thủ điều dịch thuật hải dương trị:

- Thời gian.

- Liệu trình điều trị.

- Dạng thuốc dùng: kháng sinh, ức chế toan.

- uổng điều trị.

- Tác dụng phụ của thuốc.

Vi khuẩn:

- Tình trạng kháng thuốc.

- Mức độ nhiễm vi khuẩn.

- Chủng vi khuẩn độc lực.

- Tái nhiễm.

Lời khuyên của thầy thuốc

Để PHÒNG NGừA LOÉT dạ dày TÁ TRÀNG:

- Ngừng uống rượu và hút thuốc lá.

- sử dụng thuốc hạ sốt giảm đau nhóm Acetaminophen thay vi thuốc chống viêm không steroid (NSAID) như Aspirin, Ibuprofen.

Giảm dùng các chất kích thích như cà phê.

- Giúp trẻ thăng bằng giữa việc học và tiêu khiển, giảm găng tay.

- Rửa tay là một trong những biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất làm giảm nguy cơ truyền nhiễm HP.

BS. Hoài Nhân (cố vấn chuyên môn), AN QUÝ (ghi)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét